Virus viêm gan C khi đã tấn công vào cơ thể con người nếu như không được điều trị thì bệnh rất dễ chuyển sang mãn tính và có thể gây ra nhiều biến chứng như xơ gan hoặc ung thư gan gây nguy hiểm đến tính mạng người bệnh. Do đó, người bệnh mắc bệnh viêm gan C cần được điều trị bệnh sớm.
>> Xem thêm: Điều trị viêm gan C có tốn kém không
>> Xem thêm: Những cây thuốc điều trị viêm gan C hiệu quả

THUỐC NÀO ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN C MÃN TÍNH?
Theo các bác sĩ chuyên khoa gan thì hầu như bệnh nhân mắc bệnh viêm gan C cấp thường có nguy cơ 50 – 80% trở thành viêm gan C mạn. Có đến 50 – 70% tất cả các trường hợp ung thư gan là có sự liên quan tới virut viêm gan C. Những người viêm gan C mạn không điều trị hiếm khi thanh thải virut tự nhiên trừ khi tình trạng miễn dịch bị thay đổi. Ở các bệnh nhân nhiễm virut viêm gan C mạn, mục tiêu điều trị là diệt trừ virus, ức chế virut sao chép lâu dài và giảm tình trạng viêm gan.
Interferon alpha là thuốc điều trị hiệu quả, nó làm biến mất sự tăng men transaminase sau 1-2 tháng điều trị. Nhiều nghiên cứu cho thấy, interferon làm men transaminase trở lại bình thường trong 50% trường hợp, cũng như làm giảm hoạt tính mô học. Hiệu quả lâu dài của việc điều trị interferon vẫn chưa được biết hết. Vì sau khi ngừng điều trị 3 – 6 tháng thì gần 1 nửa có hiện tượng tái phát.
Hiện nay thường dùng liệu pháp peg – interferon kết hợp với ribavirin cho tỷ lệ đáp ứng virut học kéo dài trên 50% các bệnh nhân đã dần thay thế các chế độ điều trị cũ.
Peg – Interferon: là sự phối hợp giữa interferon với polyethylen glycol, còn gọi là pegylate hoá, làm thanh thải thuốc chậm đi và do đó phơi nhiễm kéo dài với nồng độ thuốc cao hơn, nên chỉ dùng một tuần một lần. Điều trị phối hợp với ribavirin cho tỷ lệ đáp ứng cao hơn, lớn hơn 50%.

Trường hợp bệnh nhân chống chỉ định dùng ribavirin có thể được điều trị bằng peg – interferon. Các tác dụng phụ: phần lớn các tác dụng ngoại ý là ở mức độ nhẹ và trung bình, không cần hạn chế điều trị. Các tác dụng phụ hay gặp là đau nơi tiêm, mệt, ớn lạnh, sốt, đau khớp, triệu chứng giống cúm, trầm cảm.., ngoài ra có thể gặp giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu, phát ban, tăng cảm giác, nhìn mờ, lú lẫn, rong kinh, táo bón, rối loạn tâm thần…
Ribavirin: Được phát hiện vào năm 1972, là một chất tương tự guanosine có phổ hoạt tính rộng chống lại các virus RNA và DNA gồm cả các Flaviviridae như virut viêm gan C. Ribavirin có vai trò quan trọng trong phác đồ phối hợp với peg – interferon trong suốt quá trình điều trị. Các tác dụng phụ hay gặp là gây tan máu, ngoài ra còn gây quái thai, do đó không được dùng cho phụ nữ mang thai.
Tuy nhiên, không được dùng các thuốc trên điều trị cho bệnh nhân viêm gan mạn do virus C trong các trường hợp sau: bệnh nhân xơ gan mất bù, bệnh tự miễn, rối loạn nhịp tim, bệnh thiếu máu và thiếu máu cục bộ, suy thận, phụ nữ có thai và cho con bú, trẻ em dưới 18 tuổi. Cần thận trọng khi sử dụng cho các bệnh nhân thiếu máu 3 dòng, bệnh nhân có các rối loạn tâm thần, các rối loạn co giật.
Interferon có khả năng khống chế được lượng virus trong cơ thể người bệnh, tuy nhiên người bệnh khi mắc bệnh viêm gan C thì không nên tự ý điều trị bệnh bằng interferon hoặc bất cứ loại thuốc nào được quảng cáo là có thể khống chế được lượng virus trong cơ thể người bệnh, bởi vì sử dụng những loại thuốc khi chưa được thăm khám có thể làm cho bệnh viêm gan C trầm trọng hơn.
>> Xem thêm: Điều trị viêm gan C cấp như thế nào tốt
>> Xem thêm: Điều trị viêm gan C bằng thảo dược